chấm bài thi doch phách thì biết đứa nào vs đứa nào
biết zứa t cũng làm cơ bản cho xong
qả ni đúp rồi
tạm biệt tình yêu đi :demoralize:
Printable View
chấm bài thi doch phách thì biết đứa nào vs đứa nào
biết zứa t cũng làm cơ bản cho xong
qả ni đúp rồi
tạm biệt tình yêu đi :demoralize:
ok nhé link đen :whistle:Trích dẫn:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Mùa thu năm 1939, nhà thơ Huy Cận, chàng trai 20 tuổi, nhân lúc đi đến bến Chèm, đứng bên bờ nam nhìn cảnh sông Hồng mênh mông trời nước bao la đã hình thành bài thơ “Tràng giang”. Đây không chỉ là bài thơ tiêu biểu, gắn liền với tên tuổi của nhà thơ Huy Cận mà còn là bài thơ đặc sắc trong trào lưu thơ lãng mạn giai đoạn 1930 –1945.
“Tràng Giang” mang không khí đường thi, cổ kính và thấm đẫm màu sắc Phương Đông. Nó có phần khác lạ so với rất nhiều thi phẩm của các thi sĩ cùng thời đang háo hức đón nhận luồng gió Tây phương, nhiệt tình vận dụng thể thơ sonet của Pháp đổi mới thơ Việt Nam. Tuy vậy “Tràng giang” tuyệt nhiên không bị coi là “cũ”. Ngay cả đối với hôm nay, nó đã từng vượt qua ba phần tư thế kỷ, từng song hành với rất nhiều bài thơ hay của nhiều xu hướng, trào lưu nghệ thuật khác nhau, song giá trị của Tràng giang vẫn không hề bị suy giảm. Có thể xem đây là một ví dụ điển hình chứng minh rằng sự trường tồn của một bài thơ không phụ thuộc vào việc nó được viết bằng thể thơ gì, hình thức nào? Sức sống của nó chính là ở hồn vía nhà thơ, một cá thể mà soi vào đó người ta thấy được tâm thế của thời đại.
Tràng giang có nghĩa sông dài, cụ thể ở đây là sông Hồng, nhưng tác giả không đặt tên bài thơ là sông dài, mà là “Tràng giang” vì sức biểu đạt của “Tràng giang” sâu sắc hơn, không chỉ về âm hưởng trang trọng cổ kính mà còn tái hiện một không gian khoáng đạt vô cùng vô tận của thiên nhiên vũ trụ.
Tràng giang trước hết là một bài thơ thiên nhiên, nhưng cái đích của nó là mượn thiên nhiên, thông qua thiên nhiên để bày tỏ niềm hoài nhớ quê hương và tâm trạng của người trí thức trước thời cuộc.
Thiên nhiên vừa là tác nhân khơi nguồn cảm xúc vừa là phương tiện biểu đạt. Thiên nhiên trải dài, xuyên suốt và được sắp xếp theo hệ thống đối lập. Một bên là những hình ảnh cao lớn, rộng dài, bao la kỳ vĩ mang chiều kích vũ trụ: “sông dài”, “trời rộng”, “mây cao”, “núi bạc”, “bờ xanh”, “bãi vàng”. Một bên là những hình ảnh, sự vật nhỏ bé, đơn sơ, trơ trọi, trôi nổi, vật vờ: “con thuyền”, “củi một cành khô”, “cồn nhỏ gió đìu hiu”, “bèo dạt”, “chim nghiêng cánh nhỏ”…Hệ thống hình ảnh đối lập này tạo nên sự liên tưởng về thân phận con người nhỏ bé,bơ vơ, bất lực, buông xuôi, không định hướng, như bèo dạt hàng nối hàng không biết về đâu, như củi một cành khô lạc mấy dòng. Đây là tâm trạng chung của nhiều thanh niên trí thức thời bấy giờ, khi dân tộc chìm trong bóng đêm nô lệ, mà họ chưa tìm thấy con đường đi. Tâm trạng này in đậm trong thơ giai đoạn trước cách mạng tháng tám. Lưu Trọng Lư cảm nhận thân phận như “con nai vàng ngơ ngác”. Xuân Diệu cũng rơi vào trạng thái của “con cò trên ruộng cánh phân vân”. Còn Tố Hữu thì thốt lên:
“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi”.
Và đó là lý do của nỗi buồn, cô đơn mà người ta gọi là tâm bệnh của thời đại. Nỗi buồn ấy thấm sâu vào cảm quan nghệ thuật trở thành lý tưởng thẩm mỹ, chi phối hoạt động sáng tạo của các nhà thơ lãng mạn. Trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận nỗi buồn là âm hưởng chủ đạo, bao trùm. Nỗi buồn dường như nằm trong bản thân tạo vật:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
…..Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
…Sông dài trời rộng bến cô liêu
Nỗi buồn ấy choán hết cả không gian, thời gian biến không gian thành một vũ trụ hoang vắng và tĩnh lặng và thời gian ngưng đọng.
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”
Bầu trời như thể bị đẩy lên cao, sâu thẳm không thể nhìn thấy đáy. Bầu trời hoang vu như hồn người, còn mặt đất thì
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”
Giữa sông nước mênh mông không có con đò, không có chiếc cầu để gợi lên chút hy vọng về một bến bờ khác, vượt thoát khỏi thực tại. Không gian tuyệt đối tĩnh lặng. Không có một âm thanh nào phát ra thành tiếng. Sóng gợn nhẹ, gió đìu hiu, bờ bãi lặng lẽ, chỉ có thứ âm thanh từ ký ức xa xăm dội về tâm tưởng thành niềm khát khao, thành câu hỏi: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.
Hiếm có bài thơ nào cùng một lúc sử dụng hàng loạt từ láy như Tràng giang: “điệp điệp”, “song song”, “lơ thơ”, “đìu hiu” “chót vót”, “lớp lớp”, “dợn dợn” là những từ có ưu thế diễn tả “cá tính” của sự vật, tạo nên nhịp điệu, âm hưởng của lời thơ và do đó bộc lộ sắc thái tình cảm của nhà thơ. Và cũng hiếm có bài thơ nào đưa cả một hệ thống thiên nhiên với nhiều hình ảnh, sự vật như “Tràng giang”. Lạ ở chỗ các yếu tố thiên nhiên sự vật hầu như không liên kết với nhau. Nó tồn tại, vận động một cách độc lập, cô lẻ, rời rạc như cũng tự mình ẩn vào nỗi niềm riêng , do đó càng làm gia tăng ở con người cảm giác cô đơn, bơ vơ, không được nương tựa, che đỡ. Trong hoàn cảnh ấy con người thường tìm nơi bám víu, tìm chỗ dựa tinh thần, một nguồn an ủi. Nơi ấy là quê hương
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Bóng chiều, hoàng hôn đã trở thành thời gian tâm lý trong thơ kim cổ. Đó là khoảng thời gian cuối ngày đang dần chuyển sang đêm; những tâm tư lắng đọng cho nỗi nhớ trào lên, nhất là nỗi nhớ quê hương luôn thường trực đau đáu trong tâm hồn thi nhân.
Nhà thơ Thôi Hiệu từng viết:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
Trước con sông dài mênh mông, nhà thơ Huy Cận như đồng cảm với nỗi lòng nhớ quê của Thôi Hiệu ông “thú nhận” với mình: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Vậy là nỗi buồn của nhà thơ được cắt nghĩa đầy đủ hơn. Đó không phải nỗi buồn vu vơ, vô cớ, mà là nỗi buồn trong sạch thanh cao. Nỗi buồn ấy không làm cho con người trở nên yếu đuối, bi lụy, mà nuôi dưỡng trong ta những tình cảm đẹp, những khát vọng lớn lao và tình yêu quê hương đất nước./.
ok ạ
ai cần Lik đen in phao hok
Lik đen in luôn cho mấy đứa
tha hồ mà chép
:redface:
Đây chỉ là dàn bài thôi, tau biết là trên lớp cũng chẳng được mấy đứa ghi bài, đây là phân tích đầy đủ rồi đấy ;))Trích dẫn:
Vội vàng - Xuân Diệu
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn:
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
I. Kiến thức cơ bản
1. Tác giả
- Xuân Diệu (1916-1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, bút danh: Trảo Nha.
- Quê cha ở Hà Tĩnh, quê mẹ ở Bình Định, lớn lên ở Quy Nhơn. Xa gia đình từ nhỏ và sống ở nhiều nơi. Mỗi miền đất có ảnh hưởng nhất định đến hồn thơ ông.
- Trước cách mạng, Xuân Diệu là một nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Sau cách mạng, Xuân Diệu hoà nhập, gắn bó với đất nước, nhân dân và nền văn học dân tộc.
- Xuân Diệu để lại một sự nghiệp văn học lớn, ông là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, mãnh liệt, bền bỉ .
- Tác phẩm:
+ Thơ “Thơ thơ” (1938); “Gửi hương cho gió” (1945); “Riêng chung” (1960); Mũi Cà Mau - Cầm tay” (1962); “Hai đợt sóng” (1967)…
+ Văn xuôi: Phấn thông vàng (1939); Trường ca (1945)…
- Phong cách thơ:
+ Xuân Diệu là một nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại, một nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”.
+ Thơ Xuân Diệu thể hiện một hồn thơ khao khát giao cảm với đời.
+ Hồn thơ Xuân Diệu rất nhạy cảm với thời cuộc
2. Bài thơ “Vội vàng”
a) Xuất xứ
- “Vội vàng” được in trong tập Thơ Thơ, xuất bản 1938.
- Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu thể hiện cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi trong thơ mới nói chung, thơ Xuân Diệu nói rêng, đồng thời in dấu khá đậm hồn thơ Xuân Diệu (“Thiết tha, rạo rực, băn khoăn”- Hoài Thanh), tiêu biểu cho sự cách tân táo bạo, độc đáo trong nghệ thuật thơ ông.
c) Bố cục
- Đoạn 1: 13 câu đầu: Tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ.
- Đoạn 2: 16 câu tiếp: Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời.
- Đoạn 3: 9 câu còn lại: Khát vọng sống, khát vọng yêu đương cuồng nhiệt hối hả.
II. Nội dung cơ bản
1. Tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ.
- 4 câu mở đầu: Thể hiện cái tôi khát vọng muốn núi héo làm ngưng sự vận động của thời gian, vũ trụ để giữ mãi hương sắc của mùa xuân, tuổi trẻ.
Tôi muốn “Tắt nắng”
“buộc gió”
--> Điệp từ, câu ngắn trùng lặp cấu trúc
=> Lấy cái tôi chủ quan để thay đổi quy luật tự nhiên. Quả là ý tưởng táo bạo, xuất phát từ một trái tim yêu cuộc sống đến tha thiết say mê.
- Nhà thơ vui sướng, ngây ngất trước hương sắc của cuộc đời đầy quyến rũ, sự phong phú và giàu có của thiên nhiên, cuộc sống, tuổi trẻ.
+Cảnh vật hiện lên dưới con mắt của nhà thơ thật phong phú, rực rỡ, tươi đẹp và đầy nhựa sống.
Tuần tháng mật
Hoa đồng nội
Này đây Lá cành tơ
yến anh, khúc tình si
ánh sáng
Thần vui hằng gõ cửa
-->Điệp từ, nhân hoá
+ Cảm giác hạnh phúc được nhà thơ thể hiện qua câu thơ táo bạo, so sánh độc đáo”
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
=> Xuân Diệu đã vật chất hoá thời gian, câu thơ không chỉ gợi hình thể mà còn gợi cả hương thơm vị ngọt khiến người ta đắm say, ngất ngây.
2. Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời
- Niềm vui sướng như khựng lại khi Xuân Diệu nhận ra giới hạn của thời gian:
“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nữa”
Nhà thơ cảm thấy buồn bã, lo sợ, tiếc nối khi ý thức được sự trôi chảy xủa thời gian:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Và Xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng đời cứ chật
………………………………………..
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
=> Với điệp từ “Xuân” kết hợp với những cặp từ đối lập tạo thành một nỗi day dứt một niềm tiếc nối khôn nguôi.
- Xuân Diệu biết mùa xuân rồi sẽ tàn phai, tuổi trẻ rồi cũng trôi qua. Cho nên trong cái tươi đẹp mơn mớn của nó tác giả đã nhìn thấy sự tàn úa.
+ Điệp từ “Nghĩa là” vừa như muốn giải thích nhưng ẩn sau đó là một nỗi lo lắng, hốt hoảng trước sự trôi chảy của thời gian.
+ Đối lập: làm tăng sự lo lắng khi nhận thấy cái hữu hạn của đời người và cái vô hạn của thời gian.
+ Cảnh vật như lao nhanh tới sự tàn phá, héo úa và chia phôi. Tâm trạng của nhà thơ có phần nào đó rơi vào sự tuyệt vọng.
“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”
3. Khát vọng sống, khát vọng yêu đương cuồng nhiệt hối hả.
- Đang chìm đắm trong đau buồn, tuyệt vọng nhà thơ chợt nhận ra thời gian của tuổi xuân vẫn còn nên lên tiếng giục giã:
“mau đi thôi! Mùa chưa ngã chiều hôm”
- Tác giả vội vàng, gấp gáp muốn tận hưởng tất cả cuộc sống, tình yêu, tuổi trẻ, hạnh phúc.
Ta muốn : ôm , riết , say , thâu , cắn vào : non nước , cỏ cây , gió mây , sự sống , xuân hồng .
+Với nhịp thơ dồn dập, ngắt nhịp linh hoạt, câu mệnh lệnh trực tiếp biểu cảm khát vọng sôi nổi của trái tim nhà thơ.
+ Hình ảnh phong phú tượng trưng cho thanh sắc của thời gian: sự sống mơn mỡn, mây đưa gió lượng, cánh bướm tình yêu, mùi thơm ánh sáng…
+Tình yêu nống nàn, khoẻ khoắn cao độ được biểu hiện bằng nhiều động từ liên tiếp: ôm, riết, say, thâu. Nhiều tính từ: chuếch choáng, no nê, đã đầy…
+ Nhà thơ cảm nhận niềm hạnh phúc bằng tất cả các giác quan, trạng thái say mê, ngây ngất.
+ Từ ngữ, hình ảnh táo bạo ở câu cuối cho thấy Xuân Diệu rất say mê cuộc sống, khát khao và muốn tận hưởng tình yêu, hạnh phúc ngay trên chính cuộc đời này.
III. Tổng kết
- Bài thơ thể hiện tư tưởng nhân sinh quan tích cực của tác giả, lòng yêu cuộc sống, yêu đời, yêu tuổi trẻ một cách mạnh liệt, cuống nhiệt.
- Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu: Cảm nhận thiên nhiên tinh tế, sử dụng điệp ngữ so sánh độc đáo, hình ảnh thơ khoẻ khoắn, nồng nàng, từ ngữ gợi cảm, táo bạo.
mong sao hnay giám thị trông dễ hơn hqa
mà tốt nhất là để e Mr Five hoặc a Nam sodoku trông càng tốt ạ :whistle:
Chu đáo thì chu đáo thật nhưng làm phao thế thì nản:demoralize:Thằng Thành Ruồi đọc mà hok hiểu gì:stress:
-----------------------------------------
Làm phao làm chi tớ 1 cái luôn nhá Linh Đen:whistle::whistle:
Tốt nhất thì nên làm phao sử ấy, làm nhỏ thôi, xem thằng nào ghi đủ thì photo ra. Hôm qua, may có thằng bạn nó nhớ tới mình, nó làm phao cho :)
axax
thế Sơn điếm lấy bài nào? :hmm:
Linh đen nhiều bài lắm
Tính tớ từ bé đã tham lam thôi thì có bài nào thì vứt đây tớ nhận hết:chuckle:
Link đen làm sử đê, sử ấy, làm hộ bài 17 với bài 20. Thanks nhiều nhiều ;))
-----------------------------------------
Việt Nam sẽ làm được thế này sau bao lâu nữa
[YOUTUBE]Um9KsrH377A&feature=player_embedded[/YOUTUBE]