Trang 2 của 2 Đầu tiênĐầu tiên 12
Kết quả 11 đến 15 của 15

Chủ đề: Thi nhân Việt nam

  1. #11
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định

    Tác giả Hà Huyền Chi:


    -Hà Huyền Chi tên thật là Đặng Trí Hoàn, sinh năm 1935 tại Hà Đông và trưởng thành tại Hà Nội.

    Năm 1954 di cư và Nam một mình.
    Năm 1957 nhập ngũ khóa 14 BVQGVN.
    Năm 1964 lập gia đình, hiện đã có 5 con trưởng thành.
    Năm 1975 đào thoát sang Hoa Kỳ.

    Tác phẩm đầu tay: "Sault" Đêm, thơ, 1963.
    Đã in 16 tập thơ, 8 truyện dài

    trích VHNT Tuyển Tập 2

  2. #12
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định

    Tác giả Hà Nguyên Du:




    Tuổi Canh Dần. Sinh quán : Tây Ninh
    Nguyên ký giả, thuộc nghiệp đoàn ( viết báo)
    ký giả VN do Nguyễn Khánh Giư làm chủ tịch
    SQTB/ Tác chiến / SQ/ CTCT ...
    Làm thơ lúc vừa lên trung học.
    Thơ khởi đăng nhiều từ 1968 qua một bút hiệu khác...
    Nguyên ( CTNCT )
    Sang Hoa Kỳ năm 1990 - H.O 5
    Thường đăng thơ trên các tạp chí Văn Học Nghệ Thuật Hải Ngoại :
    Khởi Hành, Văn, Văn Học, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Tạp Chí Thơ, Chủ Ðề, Tinh Hoa, Hương Văn, Văn Phong, Phố Văn, Nguyệt San Nghệ Thuật (Canada.

    Tác phẩm đã in:

    Trong Mùa Lá Xanh 1970 - thơ (in chung)
    Lối Khác 1998 - thơ
    Thơ Hà Nguyên Du ( Anh Biết, Em Yêu Dấu ) 2001

  3. #13
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định

    Tác giả Hà Thúc Sinh:

    Ông tên thật Phạm Vĩnh Xuân. Sinh ngày 7-7-1943 tại Thanh Hoá. Di cư vào Nam năm 1954. Sĩ quan. Ông bắt đầu viết từ năm 1964 trên một số tạp chí ấn hành tại Sài Gòn. Sau tháng 5-1975 bị giam giữ hơn năm năm. Ông vượt biển sang Mỹ 30-4-1981.

    Ông chủ trương tạp chí văn học nghệ thuật Tân Văn (đình bản sau 8 số vì thiếu thì giờ lẫn tài chính).

    Ông cùng Nguyễn Khoa (giám đốc nhà in Kim) thành lập nhà xuất bản Văn Mới tại miền Nam California.

    Ông được xếp vào phần Thi Sĩ và Văn Sĩ trên Thư Viện Việt Nam vì ông đã có công đóng góp đáng kể trong cả hai lãnh vực này.

    Tác phẩm đã ấn hành gồm 4 thi tập, 6 dịch phẩm văn và sử trước năm 1975. Ở Mỹ, ông ấn hành thêm 2 thi tập, 1 tiểu thuyết, 1 ký sự, 2 dịch phẩm (đăng báo), 1 biên khảo (hợp soạn), 2 album băng (cassette) ca khúc và 4 tập truyện.

    Quyển Đại Học Máu của ông được nhiều người Việt hải ngoại lẫn trong nước đọc.

    Tác phẩm đã xuất bản:

    Trí Nhớ Ðau Thương (thơ 1967)
    Ðá Vàng (thơ 1069)
    Tuyển Tập truyện Âu Châu (dịch 1970)
    Ðiệu Buồn Chúng Ta (thơ 1972)
    Dạo Núi Mình Ta (thơ 1972 tb 1973)
    Tình Em Vỗ Cánh (dịch 1973)
    Nàng Nô Lệ (dịch 1973)
    Trận Chiến Trong Thành Phố (dịch 1973)
    Cát Bụi Trần Gian (dịch 1974)
    Kiếp Người Cô Quạnh (dịch 1974)
    Ðại Học Máu (hồi ký 1985)
    Vầng Thái Quê Nhà (dịch1988)
    Thơ Viết Giữa Ðường (thơ 1988)
    Chị Em (truyện dài 1988)
    Ông H.O (truyện 1993)
    Cố Hương (truyện 1994)
    Dưa Cà Mắm Muối (truyện 1996)
    Về (truyện 1966)
    Ðêm Hè (truyện 1997)

  4. #14
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định

    Tác giả hà Nguyên Dũng :

    Tên thật Nguyễn Dũng, sinh năm 1946 tại Hà Mật Ðiện Bàn Quảng Nam. Khởi viết từ 1964 với bút hiệu Hà Mật Thương. Hiện cư ngụ tại Sài gòn Việt Nam

    Tác phẩm đã xuất bản:

    Quê Tình (thơ 1992)
    Hột Muối Bỏ Sông (thơ 1996)

  5. #15
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định

    Tác giả Hàn Mặc Tử :


    Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí. Sinh ngày 22-9-1912 ở Lệ Mĩ (Đồng Hới), mất ngày 11-11-1940, trú ngụ ở Qui Nhơn từ nhỏ. Nhà nghèo, cha mất sớm. Học trường Qui Nhơn đến năm thứ ba. Làm sở Đạc điền một độ, bị đau rồi mất việc. Vào Nam làm báo ít lâu lại trở về Qui Hoà. Kế đó mắc bệnh hủi, đưa vào nhà thương Qui Hoà rồi mất ở đó.
    Làm thơ từ ngày mười sáu tuổi (Lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thành. Đến năm 1936 khi chủ trương báo Sài Gòn mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử.
    Đã đăng thơ: Phụ nữ tân văn SaiGon, Trong khuê phòng, Đông Dương tuần báo, Người mới.
    Đã xuất bản: Gái quê (1936).
    Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn Mạc Tử nhiều lắm. Có người bảo:"Hàn Mạc Tử, Thơ với thẩn gì! Toàn nói nhảm" . Có người còn nghiêm khắc hơn nữa: "Thơ gì mà rắc rối thế! M ình tưởng có ý nghĩa khuất khúc, cứ đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa mình!" Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến Hàn Mạc Tử trong khi viết đoạn này: "Hãy so sánh thái độ can đảm kia (thái độ những nhà chân thi sĩ) với những cách đột nhiên mà khóc đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: Tôi điên đây! Tôi điên đây!- Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống".
    Nhưng tôi cũng đã nghe những người ca tụng Hàn Mạc Tử. Trong ý họ, thi ca Việt Nam chỉ có Hàn Mạc Tử. Bao nhiêu thơ Hàn Mạc Tử làm ra họ đều chép lại và thuộc hết. Mà thuộc hết thơ Hàn Mạc Tử đâu có phải chuyện dễ.
    Đã khúc mắc mà lại nhiều: tất cả đến sáu bảy tập. Họ thuộc hết và chọn những lúc đêm khuya thanh vắng họ sẽ cao giọng ngâm một mình. Bài thơ đã biến thành bài kinh và người thơ đã trở nên một vị giáo chủ. Chế Lan Viên nói quả quyết:
    "Tôi xin hưa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ tan biến đi, và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử".
    Ngót một tháng trời tôi đã đọc thơ Hàn Mạc Tử. Tôi đã theo Hàn Mạc Tử từ lối thơ Đường đến vở kịch bằng thơ Quần Tiên Hội. Và tôi đã mệt lả. Chính như Hàn Mạc Tử nói trong bài tựa Thơ điên, vườn thơ của người rung rinh không bờ bến càng đi xa càng ớn lạnh.
    Bây giờ đã ra khỏi cái thế giới kỳ dị ấy và đã trở về với cuộc đời tầm thường mà ý nhị, tôi thử xếp đặt lại những cảm tượng hỗn độn của tôi.

    Thơ Đường Luật: - Theo ông Quách Tấn, Phan Sào Nam hồi trước xem thơ Đường luật Hàn Mạc Tử có viết trên báo đại khái nói: "Từ về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều, song chưa gặp bài nào hay đến thế... Ôi hồng nam nhạc bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười lên một tiếng lớnlà thoả hồn thơ đó". Thơ Đường luật Hàn Mạc Tử làm ra nhiều nhưng bị thất lạc gần hết, tôi không được xem mấy bài. Song trong những bài tôi được xem, tôi cũng đã gặp ít câu hay, chẳng hạn như:


    Nằm gắng đã không thành mộng được
    Ngầm tràn cho đỡ chút buồn thôi.


    Dầu sao tôi vẫn nghĩ cái khuôn khổ bó buộc của luật Đường có lẽ không tiện nẩy nở một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng như nguồn thơ Hàn Mạc Tử.

    Gái Quê: - Nhiều bài có thể là của ai cũng được. Còn thì tả tình quê trong cảnh quê. Lời thơ dễ dàng, tứ thơ bình dị. Nhưng tình ở đây không có cái vẻ mơ màng thanh sạch như mối tình ta vẫn quen đặt vào trong khung cảnh những vườn tre, những đồi thông. Ấy là một thứ tình nồng nàn, lơi lả, rạo rực, đầy hình ảnh khêu gợi. Ông Phạm Vằn Kỳ đề tựa tập thơ ấy là phải lắm; Gái quê, và Une voix sur la voie đều bắt nguồn trong tình dục.

    Thơ Điên: - Thơ điên gồm có ba tập

    1. Hương thơm
    2. Mật đắng
    3- Máu cuồng và hồn điên

    Hương Thơm:- Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói. Một trời tình ái mới dựng lên đâu đây. Tuy có đôi vần đẹp, cảm giác chung nhạt tẻ thế nào.

    Mật Đắng:- Ta vẫn đi trong mờ mờ. Nhưng thỉnh thoảng một luồng sáng lạ chói cả mắt. Nguồn sáng toả ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện ấy trong thơ ta không thiếu gì, nhưng thường là một thứ buồn rầu có thấm vẫn dịu đi. Chỉ trong thơ Hàn Mạc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế. Lời thơ như dính máu.

    Máu Cuồng Và Hồn Điên: - Đến đây ta đã hoàn toàn ra khỏi cái thế giới thực và cả thế giới mộng của ta. Xa lắm rồi. Ta thấy nhữnng gì chung quanh ta? Trăng, toàn trăng, một ánh trăng gắt gao, ghê tởm linh động như một người hay đúng hơn như một yêu tinh, và cũng nao nức dục tình. Hàn Mạc Tử đi trong trăng, há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra và rú lên những tiếng ghê người... Ta rùng mình, ngơ ngác, ta đã lục lọi khắp trong đáy lòng ta, ta không thấy có tí gì giống cái cảnh trước mắt. Trời đấy này thực của riêng Hàn Mạc Tử ta không hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai hiểu được. Nghĩ thế ta bỗng thương con người cô đọc. Đã cô độc ở kiếp này và e còn cô độc đến muôn kiếp. Hàn Mạc Tử chắc cũng biết thế nên lúc sinh thời người có thể nói hay hay dở, nó đã ra ngoài vòng nhân gian, nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn. Ta chỉ biết ta đang đứng trước một người sượng sần vì bệnh hoạn, điên cuồng vì đã quá đau khổ trong tình yêu. Cuộc tình duyên ra đời với tập Hương thơm, hấp hối với Mật đắng, đến đây thì đã chết thiệt rồi, nhưng khí lạnh còn toả lên nghi ngút.
    Một nhà chuyên môn nghiên cứu những trạng thái kỳ dị của tâm linh người ta xem tập Máu cuồn và Hồn điên có lẽ sẽ lượm được nhiều tài liệu hơn một nhà phê bình văn nghệ. Tuy thế, đây đó ta gặp những câu rất hay.
    Như tả cảnh đồi một đêm trăng có câu:

    Ngả nghiên đồi cao bọc trăng ngủ
    Đầy mình lốm đốm những hào quang.


    Lên chơi trăng có câu:

    Ta bay lên! Ta bay lên.
    Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thiềm
    Ta ở cõi cao nhìn trở xuống
    Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm.

    Đọc những câu ấy có cái thú vị ở xứ lạ gặp người quen, vì đó là những cảm giác ta có thể có. Lạc có khi những cảm giác ở ta rất thường mà trong trí Hàn Mạc Tử rất dễ sợ. Một đám mây in hình dưới dòng nước thành ra:

    Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng
    Trôi thây về xa tận cõi vô biên.


    Cái ý muốn mượn lời thơ để tả tâm sự mình cũng trở nên điên cuồng và đau đớn dị thường:

    Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút;
    Mỗi lời thơ đều dính não cân ta.
    Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt,
    Như mê man chết điếng cả làn da.
    Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết,
    Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh;
    Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết
    Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh.

    Tôi chỉ trích ra vài đoạn có thể thích được. Còn bao nhiêu đoạn nữa tuy ta không thích vì nó không có gì phù hợp với lòng ta nhưng ta cũng biết rằng với Hàn Mạc Tử hẳn là những câu tuyệt diệu. Nó đã tả đúng tâm trạng của tác giả. Lời thơ có vẻ thành thực, thiết tha lắm:

    Xuân Như Ý: - Mùa xuân Hàn Mạc Tử nói đây có khi ở đâu hồi trời đất mới dựng lên, có khi ra đời một lần với Chúa Jesus, có khi hình như chỉ là mùa xuân đầu năm. Nhưng dầu sao cũng không phải là một mùa xuân thường với những màu sắc những hình dáng ta vẫn quen biết. Đây là một mùa xuân trong tưởng tượng, một mùa xuân theo ý muốn của thi nhân, đầy rẫy những lời kinh cầu nguyện, những hương đức hạnh, hoa phẩm tiết, nhạc thiêng liêng, cùng ánh trăng, ánh thơ. Nhất là ánh thơ. Với Hàn Mạc Tử thơ có một sự quan hệ phi thường. Thơ chẳng những để ca tụng Thượng Đế mà cũng để nói người ta với Thượng Đế, để ban phước cho cả thiên hạ. Cho nên mỗi lần thi sĩ há miệng - sao lạ há miệng? - Cho thơ trào ra, là chín từng mây náo động, muôn vì tinh tú xôn xao. Người ta sẽ thấy:

    Đường thơ bay sáng láng như sao sa
    Trên lụa trắng mười hai hàng chữ ngọc
    Thêu như rồng phượng kết tinh hoa.


    Hình như trong các thi phẩm xưa nay có tính cách tôn giáo không có gì giống như vậy. Hàn Mạc Tử đã dựng riêng một ngôi đền để thờ Chúa. Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ không thể cùng quỳ lạy với thi nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, trí tôi làm sao không ngợp cái vẻ huy hoàng, trang trọng, lung linh, huyền ảo của lâu đài kia? Có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như tưới vào hồn một nguồng sáng láng. Xuân như ý rõ ràng là tập thơ hay nhất của Hàn Mạc Tử.
    Với Hàn Mạc Tử Chúa gần lắm. Người đã tìm lại những rung cảm mạnh mẽ của các tín đồ đời Thượng cổ. Ta thấy phảng phất cái không khí Athalic. Cho nên mặc dầu thỉnh thoảng còn sót lại một hai dấu tích Phật giáo, chắc những người đồng đạo chẳng vì thế mà khó dễ chi với di thảo của thi nhân.
    Huống chi thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể.

    Thượng Thanh Khí: - Một vài bài đặc sắc ghi lại những cảnh đã thấy trong chiêm bao, ở đâu giữa khoảng các vì tinh tú trên kia. Đại khái không khác cảnh Xuân như ý mấy, chỉ thiếu tính cách tôn giáo, huyền bí nhưng không thiêng liên.

    Cẩm Châu Duyên: - Một hai năm trước khi mất, sự tình cờ đưa đến trong đời Hàn Mạc Tử hình ảnh một giai nhân có cái tên khả ái: nàng Thương Thương. Nàng có lẽ chỉ yêu thơ Hàn Mạc Tử và Hàn Mạc Tử hình như cũng không biết gì hơn hai chữ Thương Thương. Nhưng như thế cũng đã đủ để thi nhân đưa nàng vào "Tháp thơ". Nàng sẽ luôn luôn đi về trong những giấc mơ của người. Có khi người mơ thấy mình là Tư Mã Tương Như đương nghe lời Trác Văn Quân năn nỉ:

    Đã mê rồi! Tư Mã chàng ôi!
    Người thiếp lao đao sượng cả người.
    Ôi! Ôi! Hãm bớt cung cầm lại
    Lòng say đôi má cũng say thôi.


    Song những phút mơ khoái lạc đó có bao lâu. Tỉnh dậy, người thấy:

    Sao trìu mến thân yên đâu vắng cả?
    Trơ vơ buồn và không biết kêu ai!
    Bức thư kia sao chẳng viết cho dài,
    Cho khắng khít nồng nàn thêm chút nữa.


    Ta tưởng nghe lời than của Huy Cận.
    Nhưng cuộc đời đau thương kia đã đến lúc tàn, và nguồn thơ kia cũng đã đến lúc cạn, Hàn Mạc Tử chốc chốc lại ra ngoài biên giới thơ, lạc vào thế giới đồng bóng.
    Duyên Kỳ Ngộ Và Quần Tiên Hội: - Mối tình đối với nàng Thương Thương còn khiến Hàn Mạc Tử viết ra hai vở kịch bằng thơ này nữa. Quần tiên hội viết chưa xong và không có gì. Duyên kỳ ngộ hay hơn nhiều. Đây là một giấc mơ tình ái, ngắn ngủi nhưng xinh tươi, đặt vào một khung cảnh tuyệt diệu. Thi nhân dẫn ta đến một chốn nước non thanh sạch chưa từng in dấu chân người. Ở đó tiếng chim hót, tiếng suối reo, tiếng tiêu ngân đều biến thành những lời thơ tình tứ. Ở đó Hàn Mã Tử sẽ gặp nàng Thương Thương mà người không mong được gặp ở kiếp này, nàng sẽ nói với người những lời nồng nàn âu yến khiến chim nước say sưa. Nhưng rồi người sẽ cùng tiếng tiêu đi giữa lúc nàng gục đầu khóc, cảnh tiên lại rộn rã tiếng suối ca.
    Trong thi phẩm Hàn Mạc Tử có lẽ tập nàng là trong trẻo hơn cả. Còn từ thơ Đường luật với những câu thơ:

    Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối;
    Gió thu lọt cửa cọ mài chăn.


    Cho đến Gái quê, Thơ điên, Xuân như ý và các tập khác, lời thơ thường vẫn đục.

    *
    * *

    Tôi đã nói hết cảm tưởng của tôi trong lúc đọc thơ Hàn Mạc Tử. Không có bao giờ tôi thấy cái việc phê bình thơ tàn ác như lúc này. Tôi nghĩ đến người đã sống trong một túp lều tranh phải lấy bì thư và giấy nhựa che mái nhà cho đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến người không sao nuốt được vì ăn khổ quá. Cảnh cơ hàn ấy và chứng bệnh kinh khủng đã bắt người chịu bao n hiêu phũ phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng người bị vứt hẳn ra ngoài cuộc đời, bị giữ riêng một nơi, xa hết thảy mọi người thân thích. Tôi nghĩ đến bao nhiêu năm người bó tay nhìn cả thể phách lẫn linh hồn tan rã...
    Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên bây giờ mất rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn.

Trang 2 của 2 Đầu tiênĐầu tiên 12

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •