Trang 1 của 2 12 CuốiCuối
Kết quả 1 đến 10 của 15

Chủ đề: Thi nhân Việt nam

  1. #1
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định Thi nhân Việt nam

    Tác giả Anh Thơ :


    Tên thật là Vương Kiều Ân (Vuơng là họ cha, Kiêù họ mẹ). Sinh năm 1919 tại Ninh Giang (Bắc Việt). Ông thân sinh là nhà nho, đậu tú tài, làm trợ tá. Vì ông là công chức, thuyên chuyển nay đây mai đó nên con cái thường phaỉ đôỉ trường luôn. Do đó, Anh Thơ thay đôỉ tơí ba trường (Hải Dương, Thái Bình, Bắc Giang) mà vẫn chưa qua bậc tiểu học.

    Lười học, nhưng rất thích văn chuơng, tập làm thơ từ nhỏ. Thoạt đâù, lâý bút hiệu Hồng Anh, sau mơí đôỉ thành Anh Thơ.

    Từng đăng thơ trên các tuần baó: Hà Nội báo, Tiểu Thứ Năm, Ngày Nay, Phụ Nữ, Bạn Đường. Được giaỉ thưởng khuyến khích về thơ của Tự Lực Văn Đoàn năm 1939 vơí thi phẩm Bức Tranh Quê.

    Đã xuất bản: Bức Tranh Quê (Đời Nay 1941); Xưa (hợp tác với Bàng Bá Lân - Sông Thuơng, 1941); Răng Đen, tiểu thuyết (Nguyễn Du, 1942)

  2. #2
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định

    Tác giả Bàng Bá Lân :



    -Sinh vào tháng 12 năm 1912 tại Tân Sinh, Bắc Giang, chánh quán Hà Nam;
    tổ tiên họ Nguyễn Xuân, về sau đổi ra họ Bàng, vào nam năm 1954; mất ngày
    21 tháng 10 năm 1988 tại Sài gòn.

    tác phẩm:

    Tiếng Thông Reo
    Xưa (cùng với Anh Thơ)
    Tiếng Võng Ðưa
    Người Vợ Câm
    Kỷ Niệm Văn Thì Sĩ Hiện Ðại
    Vào Thu
    Cái Hay Của Tiếng Việt qua Tục Ngữ, Ca Dao
    Câu Ðố Dân Gian

  3. #3
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định

    Tác giả Bích Khê :


    Ô ! Hay buồn vương cây ngô đồng
    Vàng rơi ! Vàng rơi ! Thu mênh mông...

    Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24 tháng 3 năm 1916 tại quê ngoại là làng Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãị

    Ông xuất thân trong một gia đình nho học, có học trung học ở Huế, Hà Nội, nhưng rồi bỏ dở. Bích Khê sau dạy dọc tư ở Phan Thiết, Huế. Ông mất đêm 17 tháng 1 năm 1946 vì bệnh lao phổị

    Các phẩm tiêu biểu: tập thơ Tinh Huyết (1939, tác phẩm duy nhất được xuất bản trong sinh thời của tác giả); tác phẩm chưa in bao gồm các tập thơ Mấy Dòng Thơ Cũ (thơ viết 1931-1936), Tinh Hoa (thơ viết 1938-1944), Đẹp (viết 1939).

    Dòng thơ Bích Khê bao gồm ba mạch chính: thơ tượng trưng, thơ huyền diệu, và thơ trụy lạc. Ông đến với thơ mới với nhiều sáng tạo và cách tân độc đáo; nhiều tìm tòi trong nghệ thuật tạo hình, cấu trúc, ngôn từ; và nhiều cảm xúc lạ, đẹp. Một số bài có ý thơ phóng túng và lời thơ táo bạọ

    Nhận xét của Chế Lan Viên: "Nếu Nguyễn Bính là một miền đồng bằng thân thuộc thì Bích Khê là một đỉnh núi lạ. Có những nhà thơ làm thơ. Có những nhà thơ vừa làm thơ vừa đẩy lịch sử thơ ca duy tân thêm một bước. Có những nhà thơ đem đến một mùa lương thực. Lại có những nhà thơ cầm một dúm hạt giống mới trên tay. Khê thuộc vào hạng thứ hai".

    Tài liệu tham khảo:

    Tinh Huyết, Bích Khê, NXB Hội Nhà Văn tái bản, 1995.

    Tổng Tập Văn Học Việt Nam, tập 27, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1990.
    Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh & Hoài Chân.
    Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng.

    Thi Ca Việt Nam Hiện Đại, Trần Tuấn Kiệt.
    Đời Bích Khê, Quách Tấn.
    Tuyển Tập Thơ Tiền Chiến, Hoài Việt biên soạn.

    Thơ Mới -- Những Bước Thăng Trầm, Lê Đình Kỵ.

    Tạp chí Tác Phẩm Văn Học số 8.

  4. #4
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định

    Tác giả Bùi Giáng :




    Sinh năm 1926 tại Quảng Nam
    Mất lúc 14 giờ ngày 7 tháng 10 năm 1998 tại Sàigòn

    Tác phẩm:

    Một vài nhận xét về bà huyện Thanh Quan
    Một vài nhận xét về Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm, quan Âm Thị Kính
    Vài nhận xét về truyện Kiều và truyện Phan Trần
    Lá Hoa Cồn
    Mưa Nguồn
    Màu Hoa Trên Ngàn
    Ngàn Thu Rớt Hột
    Martin Heidegger và Tư tưởng hiện đại
    Ði vào Cõi Thơ
    Sa Mạc Phát Tiết
    Mùa Thu Trong Thi Ca
    Ngày Tháng Ngao Du

    và các tuyển tập thơ khác được các bạn văn ở hải ngoại ấn hành

  5. #5
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định

    Tác giả Bằng Việt:

    Bằng Việt (tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng) sinh năm 1941 tại phường Phú Cát, thành phố Huế. Lớn lên ở Hà Tây. Học phổ thông tại Hà Nội. Năm 1961 được cử đi học luật tại Matxcơva (Liên Xô). Từng làm việc ở Hội Luật học, Hội nhà văn Việt Nam, Hội Văn nghệ Hà Nội.

    Đã in các tập thơ: Hương Cây - Bếp Lửa (chung với Lưu Quang Vũ), Những gương mặt - Những khoảng trời, Đất sau mưa, Khoảng cách giữa lời, Phía nửa mặt trăng chìm, Ném câu thơ vào gió...

    Những năm giữa thập kỷ sáu mươi, công chúng văn học đã chứng kiến sự xuất hiện của một loạt cây bút mới mà chỉ ít lâu sau đã trở thành chủ lực của thi đàn. Đó là Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần Phương, Bế Kiến Quốc, Vương Anh, Phan Thị Thanh Nhàn... Vài năm sau lại là Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Nhuận Cầm, Anh Ngọc... Trong đội ngũ đông đúc này, Bằng Việt là một gương mặt riêng, có một chất riêng, không bị khuất lẫn, 'mất hút' trong một dàn đồng ca. Cái chất riêng ấy là gì? Nhiều người từng biểu dương phần 'trí tuệ', phần suy tưởng mà vẫn sinh động, gần gũi với cuộc sống của một cây bút trí thức sớm bộc lộ từ phần 'Bếp lửa' in chung với Lưu Quang Vũ. Thật ra Bằng Việt chỉ thật sự khẳng định được mình ở tập thơ thứ hai: tập Những gương mặt - Những khoảng trời (1973). Đây có thể coi là kết quả của chuyến 'đi thực tế' nhớ đời của nhà thơ trẻ vốn được số phận ưu đãi này. Cả tập thơ là một sự ngạc nhiên lớn, một sự cảm động chân thành của người trí thức trẻ khi tham gia trực tiếp vào cuộc sống rộng lớn của nhân dân, đất nước, trước hết là với cái tập thể trẻ trung, dũng cảm ở Trường Sơn. Thơ Trường Sơn của Bằng Việt khác với những nhà thơ lính vô danh đã đành, cũng rất khác với thơ của 'ông vua' thơ Trường Sơn là Phạm Tiến Duật. Phạm Tiến Duật là một người lính thực sự đã sống đủ, sống kỹ cái đời sống Trường Sơn, từ đó cất lên tiếng thơ độc đáo không thể trộn lẫn. Bằng Việt là người của hậu phương đến với Trường Sơn. Anh không thể hiểu cảnh và người Trường Sơn bằng những người lính làm thơ, nhưng anh có những lợi thế của người mới đến, các giác quan chưa bị mòn nhẵn, trơ lì. Khoảng cách giữa 'người hậu phương' và người Trường Sơn không xa như giữa các nhà thơ 'tiền chiến' và người lính chống Pháp nhưng dù sao vẫn là khoảng cách. Khoảng cách này cắt nghĩa vì sao Bằng Việt hay dùng giọng bình luận, thuyết minh trong nhiều bài thơ, chẳng hạn 'Có gì cảm động đơn sơ lắm: Cái ngủ thời nào vẫn ngủ trưa nay!' (Nhà giữ trẻ); hoặc 'Thế đấy, cuộc đời/ Có những phút bất thần thành hạnh phúc!' (Trước cửa ngõ chiến trường)... Bằng Việt bình luận, thuyết minh, thuyết phục ai? Cho những 'người hậu phương' như anh, nhiều khi là cho chính anh, một Bằng Việt của mơ mộng, của thi ca, sách vở 'ngày xưa', đôi khi chưa là một với một Bằng Việt hôm nay đang hào hứng, quyết tâm đi vào cuộc sống chiến đấu của hàng triệu, hàng triệu người. Khi hai con người ấy hòa làm một, Bằng Việt đã có bài thơ 'Mẹ' (1972), một trong những bài thơ hay nhất của anh và cũng là một bài thơ xứng đáng trong mọi tuyển tập Thơ về giai đoạn ấy. Khác với giọng kể lể đôi khi dài dòng ở một số bài mang tính 'triết luận' vu khoát, mông lung, ở bài 'Mẹ', Bằng Việt khá gọn gàng, mực thước. Tình cảm chân thật khiến anh không cần nhiều lời mà giọng thơ vẫn thấm thía, lay động lòng người:

    Con bị đau, nằm lại một mùa mưa
    Nhớ dáng mẹ ân cần mà lặng lẽ
    Nhà yên ắng. Tiếng chân đi rất nhẹ
    Gió từng hồi trên mái lá ùa qua...

    Hình bóng mong manh của người mẹ nghèo, tuổi già, bản vắng, đường xa, chiến tranh, cuộc gặp gỡ tình cờ... đặt giữa khung cảnh Trường Sơn khắc nghiệt khiến đứa con - tác giả - tiên liệu trước cuộc từ biệt cũng là vĩnh biệt. Sự biết ơn trước tấm lòng cao cả của nhân dân trong chiến tranh không cần nói ra người đọc vẫn cảm nhận được đầy đủ. Bài thơ đạt đến độ hàm súc, 'ý tại ngôn ngoại'.

    Trong Tuyển Thơ 135 bài đương soạn, Bằng Việt tự xếp thơ mình vào ba phần. Phần I có tên chung 'Chứng tích một thời', phần II 'Tự bạch', phần III 'Những trải nghiệm'. Anh giải thích: làm như thế là học cách kết cấu của một bản giao hưởng, mở đầu là sôi nổi, cuốn hút, tiếp theo là trầm lắng, trữ tình và phần cuối là đúc kết. Nếu cần chọn một đại diện cho phần II, có lẽ bài 'Nghĩ lại về Pauxtôpxky' là thích hợp hơn cả. Những năm 60 của thế kỷ trước, nhà văn Nga - Xô-viết Pauxtôpxky là thần tượng của cả một lớp thanh niên Việt Nam vào đời với đầu óc thấm đẫm tình cảm lãng mạn (tích cực). Bài thơ của Bằng Việt, như thường thấy, là sự tranh biện với chính mình và thế hệ mình. Về lý trí, dường như tác giả muốn 'dứt khoát' với những ảo tưởng lãng mạn kiểu Pau 'Đưa em đi...

    Tất cả thế xong rồi
    Ta đã lớn.

    Và Pauxtôpxky đã chết!' Nhưng cả bài thơ tỏ ra rằng, tác giả sẽ còn luyến nhớ lâu lắm, có lẽ là mãi mãi, 'cái thời lãng mạn' ấy.

    'Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu...'. Nghe nói, nhờ bài thơ này và nhiều bài thơ dịch của Onga Bécgôn mà Bằng Việt trở thành thần tượng của cánh sinh viên khoa văn các trường đại học một thời. Những câu thơ chấm phá rất 'sương khói', sự hiểu biết và đồng cảm về một chân trời văn học đương có sức hấp dẫn lớn, giọng thơ là lạ và mới vào thời điểm ấy (1969) là những nguyên nhân khiến bài thơ neo được vào tâm trí bạn đọc. Cần nói thêm về giọng thơ: Bằng Việt có cái kiểu dàn trải rất 'Bằng Việt', ở người khác thì có thể là một nhược điểm nhưng ở anh thì lại tạo ra một cái duyên riêng. Cái giọng ấy có từ bài thơ nổi tiếng 'Trở lại trái tim mình' (1967), Bằng Việt tự nhận là 'viết theo giọng Nêruđa'. Từ cái tứ rất bình thường, trở lại với Thủ đô là 'trở lại trái tim mình', Bằng Việt đã có những câu thơ, đoạn thơ rất giàu hình ảnh, tinh tế, một nhạc điệu tha thiết tuy chưa đến mức nồng nhiệt nhưng chân thành, nhờ thế bài thơ đã đứng được với năm tháng. Anh còn một số bài khác thành công theo kiểu này nhưng cũng không ít bài sự dài dòng, nhiều lời khi cảm xúc không đủ độ chín khiến bạn đọc hờ hững. Tôi có thiện cảm với thơ lục bát của Bằng Việt. Thật ngạc nhiên là một cây bút 'Tây' như thế lại có thể vận dụng thể thơ dân tộc rất nhuần nhị. Đó là 'Truông nhà Hồ', 'Cuối năm',

    'Về Huế đêm rằm'... nhất là 'Về Hương Sơn năm sơ tán ấy' (1974) và 'Lục bát cầu may' (2000). Lục bát của Bằng Việt viết thoải mái, cứ như là phóng bút viết chơi, không kỳ khu chặt chẽ quá cả về cấu tứ lẫn vần điệu, không đẩy tâm trạng đến mức độ đau đớn, cực đoan mà chỉ bàng bạc, khơi gợi 'Lanh tanh vẫn nước lòng khe/ Ngẩn ngơ chim núi se se dặm rừng'; hoặc 'Nếu em là kiếp bềnh bồng/ Thì tôi vĩnh viễn phải lòng phù du/ Nếu em khoát mở sa mù/ Thì tôi vĩnh viễn hóa bờ bến xa'... Phải chăng tâm hồn phóng túng mang đậm dấu vết của văn hóa Nga được dồn nén trong 'khuôn phép' của thể thơ cổ truyền Việt Nam đã làm nên phong vị riêng cho lục bát của Bằng Việt?

    Trong 'thế hệ sáu mươi', 'thế hệ Trường Sơn' trên văn đàn, Bằng Việt có vị trí khá ổn định và vững chắc. Tập thơ mới nhất 'Ném câu thơ vào gió' (2000) chứng tỏ sức sáng tạo của anh còn dồi dào. Có được một tiểu sử văn học phong phú như anh không phải là điều dễ dàng.

  6. #6
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định

    Tác giả Cao Xuân Tứ :



    Lương Sơn Thi Đàn Thơ Mới »» Cao Xuân Tứ
    .Tiểu sử tác giả
    .Tiểu sử tác giả


    Sinh năm 1943 tại Huế, học tại trường Quốc Học.
    Du học ở Mỹ 1960-1965.
    Làm việc ngành ngoại giao VNCH 1965-1975.
    Từ 1975 sinh sống ở Amsterdam, Hòa Lan.
    Ba bài thơ đầu tiên được đăng trên cùng một số của tạp chí Văn (Sài Gòn) năm 1965 với lời giới thiệu của Nguyễn Đình Toàn.
    Hai bài thơ mới nhất vừa đăng trên liên mạng Văn Học Nghê Thuật (Mỹ) số tháng 10, 2003.

  7. #7
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định

    Tác giả Cao Đồng Khánh

    Tên thật Cao Đông Khánh
    Sinh năm: 1941 tại An Phú Ðông Gia Ðịnh

    Du học tại Hoa Kỳ năm 1966-1971
    Vượt biển đến Mã Lai tháng 6-1979
    Đinh cư tại Hoa Kỳ từ cuối năm 1979
    Là cây bút của nhiều tạp chí hải ngoại - từng chủ trương Echo of VietNam cho đài KQED San Fransico năm 1969 - từng ngồi tù của cộng sản VN nhiều năm...

    Mất lúc 10 giờ 30 ngày 12 tháng 12 năm 2000 vì tai biến mạch máu não.

  8. #8
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định

    Tác giả Chế Lan Viên :

    Chế Lan Viên tên thật Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920, quê ở Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
    Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành Chung thì thôi học, đi dạy tư.
    Chế Lan Viên bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi; đến năm 17 thì xuất bản tập thơ đầu tay Điêu Tàn mà lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn".
    Sau 1954, Chế Lan Viên nằm trong Ban lãnh đạo Hội Nhà Văn Việt Nam, là đại biểu Quốc hội, viết nhiều thơ, bút ký, tùy bút, tiểu luận văn học. Sau 1975, ông vào Sài Gòn, ở quận Tân Bình, mất tại đấy ngày 19 tháng 6 năm 1989.
    Tác phẩm tiêu biểu: tập văn xuôi Vàng Sao (1942), các tập thơ Điêu Tàn (1937), Gửi Các Anh (1954), Ánh Sáng và Phù Sa (1960), Hoa Ngày Thường -- Chim Báo Bão (1967), Hoa Trên Đá (1984)...
    Người ta thường biết Chế Lan Viên qua tập thơ Điêu Tàn, một trong những tác phẩm nổi bật trong thi đàn tiền chiến. Đọc Điêu Tàn là bước vào một thế giới ma quỉ, kinh dị, âm u và huyền bí. Tập thơ mượn những lời rên rỉ, khóc than nghẹn ngào, chất chứa bao u uất lẫn căm hờn của một dân tộc bị diệt vong để bộc lộ lòng yêu nước một cách kín đáo.

  9. #9
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định

    Tác giả Cung Trầm Tưởng :

    Tên thật Cung Thúc Cần. Sinh năm 1932 tại Hà Nội. Vào Sài gòn năm 1949. Du học tại Pháp và Hoa Kỳ. Cựu trung tá không quân VNCH. Tù Cộng Sản 10 năm. Hiện sống tại Saint Paul, Minnesota, USA. Hội viên liên kết của Văn Bút Pháp.

    Tác phẩm đã xuất bản :

    Tình Ca (Cùng Phạm Duy, Nguyễn Cao Uyên)
    Lục Bát Cung Trầm Tưởng (Con Ðuông)
    Thám Hiểm Không Gian (dịch, Dziên Hồng)
    Lời Viết Hai Tay (thơ 1999)

    Chiều thơ Cung Trầm Tưởng

    Một buổi giới thiệu hai thi phẩm “Lời Viết Hai Tay” và “Bài Ca Níu Quan Tài” của thi sĩ Cung Trầm Tưởng đã được nhóm thân hữu của ông tổ chức tại nhà hàng Hoa Biển 2, Saint Paul, ngày 26-8-01, và đã hái gặt được kết quả mĩ mãn.

    Khoảng trên 200 người tham dự đã vào ngồi chật phòng ăn của Hoa Biển 2, khiến vài chục người đến chậm đã phải bỏ về. Tổng cộng lại, theo một giới thông thạo, đây là một buổi ra mắt thơ có số người tham dự cao nhất ở Minnesota, thuộc đủ mọi lứa tuổi, từ một cháu bé còn nằm nôi đến một lão phụ 75 tuổi.

    Một đặc điểm khác là số các bạn thanh nam nữ đến tham dự là khoảng 60 người, một con số kỉ lục đối với một buổi ra mắt thơ tại Minnesota. Tuyệt đại đa số nhóm trẻ này, tuy đã được giáo dục, đào tạo, tốt nghiệp đại học ở Hoa Kì, nhưng vẫn không quên cái nguồn gốc Việt tộc của mình, được như thế là nhờ sự dạy bảo của các bậc phụ huynh của họ và sự trân quý lẫn lòng yêu mến của bản thân họ đối với truyền thống và nền văn học nghệ thuật Việt Nam.

    Họ cảm thấy, như thi sĩ Cung Trầm Tưởng đã viết trong lời bạt của Bài Ca Níu Quan Tài, khi ông đề cập đến động cơ của phong trào làm thơ của người Việt Nam tại hải ngoại, “làm thơ trong tình huống (lưu vong) này căn bản là để tái lập cho bản thân mình sự toàn vẹn tinh thần đã bị phá vỡ (vì mặc cảm lạ nước lạ cái của thân phận lưu vong), và cũng đồng thời là một phương thức về nguồn tuyệt diệu, vì với việc sử dụng ngôn ngữ thơ Việt Nam, ta có được một con đường về gần nhất với cái tinh hoa của tiếng Việt mà cũng là của hồn Việt Nam”.

    Với cái tên “Chiều thơ Cung Trầm Tưởng và những khúc phổ nhạc thơ ông”, buổi thơ nhạc giao duyên này gồm một chương trình biểu diễn phong phú nhưng cô đọng, phản ánh những mốc điểm quan trọng của hành trình thơ ca Cung Trầm Tưởng, gồm khoảng 15.000 câu thơ trải suốt một chiều dài nửa thế kỉ đầy đảo động của lịch sử Việt Nam hiện đại.

    Khởi đầu, thi sĩ Mạc Ly Hương, người phối hợp chương trình, nói đến sự chuyển biến từ Tình ca đến Bài ca Níu Quan Tài của mạch thơ Cung Trầm Tưởng. Theo ông, đây là một chuyển cung bậc gắn liền với dòng chảy của lịch sử đất nước, ở đó tình yêu lứa đôi, nhuộm sắc dị chủng của những “Mùa Thu Paris”, “Chưa Bao giờ Buồn Thế” thuở nào, nay trở thành một thứ tụng ca dâng lên những người vợ - người tình Việt Nam tuyệt vời.

    Tiếp đến, giáo sư Nguyễn Ngọc Diễm đưa ra những nhận xét tinh tế và độc đáo về hai thi phẩm “Lời Viết Hai Tay” và “Bài Ca Níu Quan Tài”, đặc biệt là sự hoà quyện vào nhau của hai dòng ai vãn và nộ khí ca mà ông đã phát hiện ở hai thi phẩm trên. Theo ông, với sự lồng vào cho thơ mình một kích thước phẫn nộ ắt phải có trước một lịch sử đất nước đầy bạo lực và bất công, Cung Trầm Tưởng đã mở ra cho thi ca Việt Nam một chân trời mới rộng hơn, can dự hơn, quyết liệt hơn và tích cực hơn. Những nhận xét uyên bác này của giáo sư Diễm đã được cử toạ nhiệt liệt hoan nghênh.

    Sau phần phát biểu lí thuyết về thơ Cung Trầm Tưởng, chương trình biểu diễn thơ nhạc bắt đầu với bản “Vạn Vạn Lí”, thơ Cung Trầm Tưởng, nhạc Bùi Kim Cương, được cô Hoàng Kim Chi, người điều khiển dàn nhạc Việt Nhạc, viết hoà âm cho năm bè (nam) và phối khí cho một violin, một piano, một guitar, một saxophone (tenor) và một flute. Điệu nhạc được tấu lên trầm bổng, láy luyến, ngân nga, khi chậm khi nhanh, khi âm u huyền mặc, khi sôi bừng ngạo nghễ, phù điêu, hoành tráng, hành ca pha với ballad… Tất cả những chuyển động đa chiều này hoà quyện vào nhau và tỏ ra ứng hợp với cái khí hậu sử thi, bi hùng của nguyên tác thơ, đã được Cung Trầm Tưởng viết ra để vinh tụng những tù hữu đã tuẫn tử trong lao ngục cộng sản. Bản “Vạn Vạn Lí” đã gây xúc động mạnh cho giới cử toạ, được họ vỗ tay nhiệt liệt tán thưởng và yêu cầu hát lại một lần nữa, trước khi bế mạc buổi ra mắt thơ Cung Trầm Tưởng.

    Những bản phổ nhạc thơ Cung Trầm Tưởng khác được biểu diễn là những sáng tác nổi tiếng của Phạm Duy, như “Tiễn Em” (thơ: “Chưa Bao Giờ Buồn Thế”), Mùa Thu Paris, Chiều Đông ( thơ: “Khoác Kín”), “Kiếp Sau”, “Bên Ni Bên Nớ” ( thơ: “Tương Phản”), và “Đường Vào Thiên Thu” do Bùi Kim Cương phổ nhạc.

    Đình Luân nam tính, tình tứ một cách vững vàng với “Tiễn Em”. Phương Uyên sang quý với “Mùa Thu Paris”, với sự hỗ âm kín đáo mà hữu hiệu của Nguyên Phố, khiến bài nhạc có thêm chiều sâu. Quỳnh Trâm biết ứng xử với những chuyển động tinh tế, khá kiêu kì và giàu ấn tượng của một “Kiếp Sau” mà trước đây chỉ có Thái Thanh và Thái Hiền mới dám đụng tới. Triết Bình da diết, đa năng, gần gũi với cái khí hậu lãng mạn, vừa lí tưởng vừa man mác nhục cảm, khi lạnh như tha ma, khi ấm như căn phòng đôi vợ chồng trẻ của bài “Bên Ni Bên Nớ”. Quang Danh (cũng là giọng giới thiệu rất ấm của toàn ban nhạc Việt Nhạc) tê tái, hoang vắng, trầm mặc, hoài cảm với một “Chiều Đông” trên một vùng tuyết vắng bóng người yêu. Rồi Kiều Hữu Chiến nam trầm, ngân nga, sung thiệm, vương thoảng opera và nhạc nhà thờ, lung linh trữ tình với “Đường Vào Thiên Thu”.

    Về diễn ngâm, Ái Trinh tha thiết, truyền cảm với “Bóng Mẹ Chiều Thu” và “Đường Vào Thiên Thu”, được hỗ đệm bởi tiếng đàn tranh trong, giòn, linh hoạt của Hồng Châu.Trước khi trình tấu, mỗi bài nhạc đều có một lời mào đầu (chapeau) do anh Nguyễn Trọng Cảnh viết và do Quang Danh đọc, để tóm lược ý nghĩa và hoàn cảnh của bài thơ được phổ nhạc. Và tất cả những cầm thủ như Quỳnh Trâm (violin), Thủy Tú (piano), Lê Phú (saxophone tenor kiêm flute), Hồng Châu (tranh), Châu Dũng (Guitar) được đặt dưới sự phối khiển của đầu đàn Hoàng Kim Chi, ngoài viết hoà âm và phối khí còn thủ guitar. Trong tay cô, nhạc cụ này đã trở thành linh hồn của nhóm Việt Nhạc, quán xuyến, đa hiệu, vừa dây vừa gõ, điều nhịp cho toàn ban, và tạo thêm âm tầng, âm sắc cho bài nhạc.

    Cuối cùng là phần phát biểu của nhà thơ Cung Trầm Tưởng. Sau phần cám ơn cử toạ, ban tổ chức và nhóm Việt Nhạc đã làm cho buổi sinh hoạt văn hoá cộng đồng này được thành công mĩ mãn, ông đề cập đến một mục đích chính của buổi sinh hoạt là vinh danh người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện đại của lịch sử đất nước.Ông nói, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện đại đã là một chủ đề quan trọng của hai thi phẩm “Lời Viết Hai Tay” và “Bài Ca Níu Quan Tài” của ông. Ngoài là một người vợ thủ tiết chờ chồng (bị cộng sản cách li trong những trại tù hẻo lánh), một người mẹ rất mực chăm thương con cái, tần tảo để chúng có miếng cơm độ nhật, họ còn là một nàng dâu hiếu thảo, như:

    Đứng thế làm cha nuôi con dại
    Để nhà có nóc lúc chồng xa
    Em đứng thay nam tròn chữ hiếu
    Thờ cha phải đạo, dưỡng mẹ già

    Theo ông, họ còn là “một người tình trọn vẹn tuyệt vời”

    Chải gió dầm mưa chưa hết hạ
    Vai chồng em thử áo ngừa đông
    Cắn chỉ luồn kim may gấp gấp
    Vuông khăn còn ấm lệ đưa chồng

    Và đây là “tác dụng mầu nhiệm của những lá thư (em) gửi cho chồng”:

    Mỗi chữ thư em gầy nét liễu
    Anh ôm trên núi, ấp trong khe
    Em là lửa ấm đêm đông rét
    Trận gió đem mưa giữa hạn hè

    Ông nói, “tình yêu lứa đôi thuở nào, với Người em mắt nâu / Tóc vàng sợi nhỏ / Mong em chín đỏ trái sầu, nay khoác một kích thước trữ tình bao la như vũ trụ”:

    (Em) Là nắng thu hanh, mây lững thững
    Thông reo trầm vút đỉnh trời cao
    Em giăng mộc thảo xanh triền núi
    Li cách lòng anh khỏi lũ trào

    Vẫn với chữ của ông, “Rồi tất cả âm dương kết tụ thành một hạt gạo trắng nõn, biểu tượng của một luyến ái quan tích cực, có khả năng bồi tổn và cứu rỗi thật là kì diệu”:

    Biển động thuyền lay em vững lái
    Anh thương hạt gạo xẻ làm đôi
    Tình nghĩa em như sau bão thổi
    Bãi yên bể lặng, cát về bồi “Bởi vì là đá của tượng, như nàng Tô Thị, em đã đi vào huyền sử ngay lúc sinh thời”:

    Phố ấy Đồng Đăng trùng điệp núi
    Đá mòn thành tượng của tình chung
    Em đứng ôm con, bồng mưa nắng
    Sắt son, dũng cảm đến Kì Cùng
    Rồi ông kết thúc với một ước nguyện, “để được mãi mãi ở với em, anh sẽ làm một hoá thân”:

    Mai sau ngủ gốc cây sồi
    Làm thiên thu chiếc miếu ngồi thờ em

    Bài phát biểu trên của nhà thơ Cung Trầm Tưởng được cử toạ nhiệt liệt vỗ tay tán thưởng nhiều lần. Sau đó họ yêu cầu ban Việt Nhạc biểu diễn lại các bản “Vạn Vạn Lí”, “Đường Vào Thiên thu”, “Tiễn Em”, và “Mùa Thu Paris”.Về truyền thông đại chúng, có sự tham dự của báo “Ngày Nay”, “Bút Việt”, của “Việt Minnesota Radio” và “Voice of America”.

  10. #10
    VIP DDT Friend alex's Avatar
    Ngày tham gia
    17 Jan 2006
    Đang ở
    Conegliano-Italia
    Bài viết
    308
    Thanks
    0
    Thanked 0 Times in 0 Posts
    Rep Power
    65

    Mặc định

    Tác giả Du Tử Lê :

    Tên thật Lê Cự Phách, sinh năm 1942 Bắc Việt.

    Tác phẩm đã xuất bản :

    Thơ Du Tử Lê (1964)
    Năm Sắc Diện Năm Ðịnh Mệnh (1965)
    Tình khúc Tháng Mười Một (1966)
    Tay Gõ Cửa Ðời (1970)
    Chung Cuộc (cùng viết với Mai Thảo)
    Mắt Thù (1969)
    Ngửa Mặt (1969)
    Vốn Liếng Một Ðời (1969)
    Qua Hình Bóng Khác (1970)
    — Một Ðời Riêng (1972)
    Khóc lẻ loi Một Mình (1972)
    Chỉ Như Mặt Khác Tấm Gương Soi (thơ 1997)
    Thơ Tình (1996)
    Tiếng Kêu Nào Bên Kia Thời Tiết (truyện)
    em và, mẹ và tôi là một nhé (bán hồi ký)
    Chỗ Một Ðời Em Vẫn Ðể Dành
    Nhìn Nhau Chợt Thấy Ra Sông Núi
    Chấm Dứt Luân Hồi Em Bước Ra
    Ði Và Về Cùng Một Nghĩa Như Nhau

Trang 1 của 2 12 CuốiCuối

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •